2009 10 23 Phỏng vấn nhà thơ Đỗ Trung Quân bài thơ “Bài Học Đầu Cho Con”.

Publié le par phuong oanh

 

cam on anh Chuong da gui cho bai phong van nay.


****************************************
Nhà thơ Đỗ Trung Quân: câu cuối của bài Quê Hương không có trong nguyên bản

Mặc Lâm, phóng viên đài RFA      2008-10-05

Khi bài thơ được đăng lần đầu tiên trên báo Khăn Quàng Đỏ năm 1986, họ đã sửa và cắt bớt một vài đoạn và thêm một câu là “Quê hương nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nổi thành người”.

Quê hương là chùm khế ngọt ...  Câu thơ đầu trong bài thơ "Bài Học Đầu Cho Con" cùa nhà thơ Đỗ Trung Quân.
Sinh năm 1955 tại Sài Gòn, Đỗ Trung Quân vừa là bút danh vừa là tên thật của ông. Năm 1976, ông tham gia phong trào thanh niên xung phong và bắt đầu sáng tác.

Một số bài thơ của ông đã trở thành nổi tiếng như Hương Tràm (1978) được Vũ Hoàng phổ nhạc, Chút Tình Đầu cũng với Vũ Hoàng phổ nhạc thành bài “Phượng Hồng” (1988), Bài Học Đầu Cho Con (1986) được Giáp Văn Thạch phổ nhạc thành bài “Quê hương”.

“Bài Học Đầu Cho Con”

Vào đầu thập niên 1990 khi bài thơ “Bài Học Đầu Cho Con” được nhạc sĩ Giáp Văn Thạch đưa vào ca khúc đã chiếm được cảm tình của người nghe và
nhanh chóng trở thành bài hát được phổ biến nhiều nhất liên tiếp trong
nhiều năm trời.

Từ trong cũng như ngoài nước, bài thơ đã khơi động mạnh mẽ tâm trạng nhớ quê của hàng triệu người Việt xa xứ bởi lời lẽ tưởng chừng bình dị
nhưng lại rất khéo léo gợi tâm lý quê hương qua hình ảnh quen thuộc của
người mẹ Việt Nam.

Có một điều đáng nói là tuy nổi tiếng nhưng bài thơ cũng gặp không ít phê phán gay gắt, nhất là những người xa nước bởi một câu cuối kết thúc của bài thơ.

Người nghe thật sự bị hụt hẫng khi đang trong tâm trạng bị thuyết phục bởi những hình ảnh quen thuộc thân thương trong ký ức bỗng dưng nơi cuối cùng của bài thơ một âm thanh nghiêm khắc vang lên như kết án những con người lưu lạc... thế là người ta vừa thích vừa ghét, vừa muốn nghe tiếp lại vừa bực bội tắt máy khi sắp đến những dòng cuối cùng...

Chúng tôi có dịp nói chuyện với nhà thơ Đỗ Trung Quân về thi ca, văn nghệ trong cũng như ngoài nước. 

Đáng lẽ đề tài được nói đến sẽ là nhiều bài thơ cũng như hoạt động văn nghệ
của anh, nhưng không hiểu sao chúng tôi lại muốn hướng đến câu hỏi mà nhiều năm nay tôi vẫn để đó chờ dịp được hỏi.

Câu hỏi này chúng tôi chắc cũng rất nhiều người muốn nghe, và nhân đây mời quý vị theo dõi.

Tâm sự nhà thơ

Mặc Lâm: Thưa anh Đỗ Trung Quân, cảm ơn anh đã dành cho chương trình VHNT của Đài Á Châu Tự Do. Nói về những hoạt động văn nghệ của anh tôi tin rằng sẽ rất lý thú, nhưng cũng như anh đã biết thời gian của chương trình không cho phép, vậy thì nên chăng xin đề nghị là chúng ta sẽ nói về một bài thơ của anh mà thôi, vì chính bài thơ này đã làm nên tên tuổi của Đỗ Trung Quân.

Neu được, xin anh đọc lại cho thính giả nghe tác phẩm “Bài Học Đầu Cho Con” vì theo tôi biết giọng đọc của anh cũng hấp dẫn không kém khi anh làm thơ...

Nhà thơ Đỗ Trung Quân: 

Bài thơ có tựa là “Bài Học Đầu Cho Con”.

Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hở mẹ

Ai đi xa cũng nhớ nhiều

Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay

Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che
Là hương hoa đồng cỏ nội
Bay trong giấc ngủ đêm hè

Quê hương là vàng hoa bí
Là hồng tím giậu mồng tơi
Là đỏ đôi bờ dâm bụt
Màu hoa sen trắng tinh khôi

Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ...

Bài thơ kết thúc ở đấy, thưa quý vị.

Mặc Lâm: Thưa anh Đỗ Trung Quân, xin thứ lỗi nếu tôi nói không chính xác vì thật ra bài thơ còn một câu cuối nữa mới thành khổ thơ tứ tuyệt, tức là bốn câu, vì anh chỉ đọc có ba câu mà thôi. Trong nhạc phẩm "Quê Hương" do nhạc sĩ Giáp Văn Thạch phổ từ bài thơ này có hai câu cuối là: Quê hương
nếu ai không nhớ,
sẽ không lớn nổi thành người.... Xin anh cho biết đâu là nguyên bản...

Thêm một câu cuối

Nhà thơ Đỗ Trung Quân: Dạ. Thưa anh và thưa quý vị, bài thơ này được đăng lần đầu vào năm 1986, xuất xứ của nó là hồi đó tôi đề tặng bé Quỳnh Anh. Quỳnh Anh là con của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh bây giờ. Khi tôi đề tặng thì Quỳnh Anh mới chỉ được một tuổi thôi.

Tôi đăng lần đầu năm 1986 ở báo Khăn Quàng Đỏ. Khi đăng bài này thì người biên tập có bỏ một vài đoạn và thêm một đoạn, đúng ra là một câu, cái câu cuối cùng. Những người biên tập bài này là chị Việt Nga, con của nhà
thơ Lê Giang
. Chị Việt Nga thì cũng đã mất vị bạo bệnh.

Mặc Lâm: Anh có thể cho biết cụ thể hơn một chút xíu về việc này không, thưa anh?

Nhà thơ Đỗ Trung Quân: Một khổ thơ “Quê hương là cầu tre nhỏ...” tôi dùng thể thơ 6 chữ thì tự nhiên tôi bỏ lửng. Thông thường một khổ thơ có bốn câu, thế thì thấy tôi bỏ lửng như vậy thì chị Việt Nga đã thêm vài chu

Mặc Lâm: Và sau khi biết bị báo Khăn Quàng Đỏ tự tiện sửa thơ của mình như vậy thì anh có phản ứng gì không, và những lần tái bản sau thì bài thơ có được sửa lại cho đúng không ạ?

Nhà thơ Đỗ Trung Quân: Khi tôi thấy họ sửa và bỏ một vài đoạn nên khi đăng lại vào năm 1991 ở trong tập Cỏ Hoa Cần Gặp (thơ, 1991) thì tôi đăng lại nguyên bản, và nguyên bản thì nó có khác với bài đầu tiên do khi đó đã được cắt bớt một vài đoạn và thêm một câu là “Quê hương nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nổi thành người”.

Thì, thưa anh, khi tôi đăng lại thì nó có khác. Thật ra mà nói thì nhạc sĩ
phổ theo cái bản của năm 1986 chứ không phải là theo bản của năm 1991.

Tập thơ “Cỏ Hoa Cần Gặp” (1991) thì trước khi rời Việt Nam thì nhà thơ -
nhà dịch giả Hoàng Ngọc Hiến in cho tôi, và cái bản chính của nó là nằm
ở tập này, không có câu cuối cùng.

Thưa anh, bây giờ thì nói như thế thì tôi có một phản ánh lại là chị Việt
Nga là người biên tập bài này,cũng như nhạc sĩ Giáp Văn Thạch đã mất
rồi, tôi là người còn sống, nói thế nào đó nó cũng là khó ở chỗ là những người đã mất thì không nói lại được và tôi rất ngần ngại.

Mặc Lâm: Như vậy thì nhạc sĩ Giáp Văn Thạch đã phổ bài thơ này trước khi được anh đăng lại phải không thưa anh?

Nhà thơ Đỗ Trung Quân: Anh Giáp Văn Thạch đã phổ theo bài thơ năm 1986 là bài thơ đã được bớt một vài đoạn. Nếu quý vị để ý thì sẽ thấy là không có một đoạn mà tôi viết tiếp là:

“Quê hương là vàng hoa bí
Là hồng tím giậu mồng tơi
Là đỏ đôi bờ dâm bụt
Màu hoa sen trắng tinh khôi.

Khi tôi làm bài thơ này, tôi gửi cho bé Quỳnh Anh. Chúng tôi lúc đó là bạn
với nhau. Giai đoạn đó thì ai cũng nghèo. Tôi không có gì làm quà cho cháu Quỳnh Anh, mà Quỳnh Anh bây giờ đã là một cô gái 23 tuổi, học ở Pháp.

Thế thì khi tôi tặng như vậy thì tôi chọn một bài thơ cho trẻ con và tôi
chọn một thể thơ dễ thuộc, dễ nhớ, đó là thơ 6 chữ, thơ 5 chữ - thơ 6
chữ đó, một thể thơ dễ thuộc ở Việt Nam. Và những hình ảnh thì tôi chọn
những hình ảnh rất là gần gũi: cây khế, cầu tre, con diều...

Mặc Lâm: Anh vừa nhắc đến từ “con diều” khiến tôi nghĩ rằng anh đã thiếu mất đoạn này vào lúc đầu anh đọc bài thơ đó ạ.

Nhà thơ Đỗ Trung Quân: Lúc nãy tôi đọc hình như có thiếu một đoạn thưa quý vị. Đó là:

“Quê hương là con diều biếc
Tuổi thơ con thả trên đồng
Quê hương là con đò nhỏ
Êm đềm khua nước ven sông...”

Xin thứ lỗi là vì tôi cũng không thuộc thơ mình lắm. Tôi xin được bổ sung
một đoạn như thế. Và nó ra đời ở trong một cái giai đoạn là, xin quý vị
nhớ giùm là năm 1986, khi đó văn chương ở Việt Nam hầu hết còn ở trong
giai đoạn động viên xã hội chủ nghĩa, tức là lao động, tức là một chút
gì đó còn có chiến tranh.
 

Cái bài thơ này hoàn toàn không dính dáng tới cái đó bởi vì tôi làm để tặng
cho một cô bé còn rất là nhỏ và mới chỉ một tuổi. Và những hình ảnh đó,
tôi nghĩ rằng nếu có hình dung là cháu lớn lên sau này, cháu có đi khắp
nơi, đi tới nước nào cũng vậy, ở đâu nó cũng thế. Thì những hình ảnh đó
cháu mang theo và đó là đất nước của mình.

Sau này thì bài thơ trở thành ngoại giao, trở thành mang một chút sứ mệnh chính trị, thì xin thưa với quý vị là điều đó nằm ngoài ý muốn của tác
giả, bởi vì một bài thơ được viết và khi để nó ra, nó sống hay nó chết, cái đó không nằm trong tầm tay của người sáng tác.

Thật sự tôi cũng rất ngạc nhiên là bài thơ này có một số phận rất là đặc
biệt, nó được nhiều người biết đến, nó được loan đi rất là xa, nó có thể gây yêu mến nhưng đồng thời nó cũng có thể gây ngộ nhận. Tất cả những cái đó thì đó là số phận riêng. Tốt nhất là thôi cứ để nó có số phận của nó.

Mặc Lâm: Chúng tôi cũng được nghe là anh đã giao lại tác quyền bài thơ này cho gia đình nhạc sĩ Giáp Văn Thạch, sự thật như thế nào, thưa anh?

Nhà thơ Đỗ Trung Quân: Thưa anh và thưa quý vị, trong vòng 7 năm nay tôi đã làm một văn bản cho Cục Bản Quyền ở Việt Nam là tất cả những liên quan đến bài thơ “Quê hương” thì xin được chuyển hoàn toàn cho gia đình nhạc sĩ Giáp Văn Thạch những gì thuộc về vật chất. 

Tôi đã làm một bản ủy quyền cho Cục Bản Quyền ở Việt Nam. Nhạc sĩ Phó Đức Phương là người đã chấp nhận cái thơ tay này của tôi. Gia đình nhạc sĩ
Giáp Văn Thạch thì thật ra mà nói cũng rất khó khăn. Rất tiếc là ảnh mất sớm.
 

Tôi nghĩ là cái việc mà tôi làm nó cũng như mọi người ở Việt Nam là nó cũng
thuộc đạo lý Việt Nam thôi. Nhưng mà bản quyền ở Việt Nam thật ra mà
nói thì cũng không nhiều đâu. Cái điều đó cũng không giúp cho gia đình
ảnh bao nhiêu, nhưng mà cá nhân tôi thì xin phép là tôi đã chuyển gần 7
năm nay tôi chuyển tất cả những gì liên quan đến ca khúc đó cho gia
đình anh Thạch.

Mặc Lâm: Và trước khi từ giả, anh có lời gì cần chia sẻ với thính giả nghe đài hay không ạ?

Nhà thơ Đỗ Trung Quân: Tôi xin cảm ơn anh vì tôi đã có dịp để nói lại một bài thơ mà thật ra thì nó cũng đã lâu, cũng đã cũ, nhưng dẫu gì đi nữa thì thỉnh thoảng cũng có người nghe, có người hiểu nó, có người bực mình nó..

Copyright © 1998-2009 Radio Free Asia. All rights reserved

************ ********* ********* ********* ********* *********

Nếu Quê Hương Là Mẹ, Ai Se~ là Cha?

Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi

Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người

Đó là bốn câu kết trong bài thơ Bài Học Đầu Cho Con của nhà thơ Đỗ Trung Quân. Đỗ Trung Quân là một nhà thơ trẻ, sinh ra và lớn lên ở miền Nam, cùng thế hệ với tôi. Sau 1975 tôi thường nghe giới sáng tác gọi anh ta là nhà thơ thanh niên xung phong vì nghe đâu anh có đi thanh niên xung phong thì phải.

Trước hết, tạm thời loại bỏ yếu tố thời gian và không gian trong bài thơ để chỉ đọc bài thơ bằng một cảm xúc chủ quan. Bài thơ rất cảm động, mặc dù chỉ bốn câu chót mà tôi vừa trích dẫn được gọi là rất hay còn những đoạn khác, thật ra, chỉ là để dọn đường cho kết luận “Quê hương nếu ai
không nhớ, sẽ không lớn nổi thành người” của anh. Thế nào là thơ hay, thế nào là thơ dở cho đến nay vẫn còn là một vấn đề tranh cãi. Mỗi nhà thơ đều có quan niệm riêng của họ về sáng tác và về nghệ thuật. Do đó, mỗi nhà thơ hay mỗi trường phái của những người làm thơ, có một định nghĩa riêng về thơ hay, thơ dở. Hỏi cụ Cao Tiêu thì có thể cụ không trả lời giống như khi hỏi nhà thơ Du Tử Lê.

Theo tôi, thơ hay là thơ phải sống, phải có tâm hồn, phải trong sáng, phải có tư tưởng, có chiều sâu, phải nói lên một cái gì đáng nói. Bốn câu thơ của Đỗ Trung Quân hội đủ điều kiện theo quan điểm riêng của cá nhân tôi. Thơ anh trong bài nầy rất bình dị, nhẹ nhàng nhưng sâu sắc. Đọc bốn câu của Đỗ Trung Quân, dù bạn đang làm bất cứ chuyện gì cũng phải dừng lại một chốc lát để suy nghĩ về mẹ, về quê hương, đất nước.

Khi đọc bài thơ Bài Học Đầu Cho Con của Đỗ Trung Quân lần đầu cách đây khá lâu, tôi xúc động lắm. Tôi ra ngồi một mình trên chiếc ghế đá dọc bờ biển Boston. Trong khoảnh khắc bàng hoàng đó, bài thơ mang tôi đã trở về quê hương. Tôi thấy mình đang đứng nghe tiếng nước vỗ bên chân cầu
Vĩnh Điện. Tôi thấy mình đang tinh nghịch ngồi chễm chệ trên cây khế sau vườn. Hồi xưa cây khế sinh trái chua lắm nhưng hôm đó bỗng dưng trở thành ngọt lịm. Tôi thấy mình đang thả diều trên đồi cỏ, giữa rừng sim tím ngắt với cô bạn gái học trò lớp bảy. Không giống như ngày nào tôi là cậu bé rụt rè nhút nhát, hôm ấy tôi bạo dạn hơn nhiều. Hình như tôi còn dám cầm tay cô bé nữa, chỉ có điều tôi vẫn không dám nói những điều tôi hằng muốn nói.

Quê hương tôi đẹp lắm. Sông Thu Bồn, cầu Thủy Tú, bãi Mỹ Khê, hòn Non Nước, núi Ngũ Hành, đèo Hải Vân, động Thiên Thai, phố Hội An, thành Đà Nẵng, v.v… Chao ôi, chỉ cái tên thôi đã nghe rung động lòng người. Và nhữngngười con gái của quê hương tôi cũng đẹp hơn con gái của bất cứ một nơi
nào mà tôi đã đi qua. Đồng bào tôi sống bằng nghề dệt vải, dệt lụa nên đàn ông con trai thì thường mặc áo quần may bằng vải, gọi là vải nội hóa hay vải ta, và đàn bà con gái thì mặc áo quần may bằng lụa. Một lần ở trường Trần Quý Cáp, Hội An, bọn chúng tôi trai gái cùng đi học về thì chẳng may trời đổ mưa như tát nước. Chiếc áo dài bằng lụa mỏng đã vô tình đồng lõa một cách tội lỗi với cơn mưa để phơi bày thân thể của cô bạn học. Hình ảnh dễ thương tuyệt vời đó đã đọng lại trong thơ tôi:

Em về phố cũ chiều mưa lớn
Vóc ngọc ngà phơi dưới lụa hồng
Ta như giọt nước mùa mưa ấy
Đã cuốn trôi về trăm nhánh sông

(Mưa Phố Hội, thơ Trần Trung Đạo)

Và dĩ nhiên trên chiếc ghế đá bên bờ biển Boston, tôi cũng gặp lại người đàn bà đã mang tôi vào cuộc đời nầy, đã dạy tôi làm thơ và dạy tôi thương yêu nhân loại. Mẹ tôi cười. Mẹ tôi ăn trầu nên khi cười hàm răng của bà đen lánh. Da mặt nhăn nheo theo cuộc đời vất vả của bà nhưng đôi mắt vẫn chứa đầy những tinh anh và hiền dịu. Lâu lắm rồi tôi mới thấy mẹ cười.

Ví mà tôi đổi thời gian được
Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười.

Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười. Câu thơ tôi viết năm nào thay cho lời cầu nguyện mãi tới hôm đó tôi mới biết quả là linh nghiệm vì mẹ tôi đã cười.

Nhớ lại trước ngày ra đi, tôi mướn xích lô từ ngoài cửa sông Sài Gòn chạy về thăm mẹ lần cuối trong cơn mưa tầm tã. Mẹ tôi lấy khăn lau khô mái tóc cô hồn dài gần tới vai của tôi, vừa mắng nhẹ: “Qua đó không biết ai mà nhắc con đi hớt tóc mỗi tháng đây nữa”. Tôi thật là tệ. Không nói với mẹ điều gì ngoài ba tiếng “con đi nghe”. Chỉ có thế rồi tôi đi. Tôi đi xa quê hương mang tâm trạng của một kẻ bị đuổi xô, khinh rẻ hơn là tâm trạng của một kẻ đang đứng trước một chọn lựa đớn đau đầy luyến tiếc. Tôi không có chọn lựa nào cả, chỉ mong đi cho lẹ, chạy cho xa. Đikhông ngoảnh mặt nhìn mẹ lần cuối, không kịp vuốt tóc đứa em đang khóc rưng rức sau nhà. Lẽ ra hôm đó tôi phải ôm hôn giã từ mẹ hay xin một chiếc áo cũ của bà để mỗi đêm trên xứ người còn nghe lại chút hơi ấm thơm tho của lòng mẹ. Tôi đã không làm thế. Để rồi, khi qua đảo Palawan, nhớ mẹ, nhớ em, tôi làm thơ tự hỏi:

Mẹ tôi giờ nầy còn khóc nữa hay không
Hay cố ngủ để chiêm bao giờ hạnh ngộ
Em tôi đứng thập thò trên góc phố
Đợi anh về dù chỉ mới ra đi

Người con gái tôi yêu ở tuổi xuân thì
Có về lại, một lần, thăm phố vắng
Sài Gòn bây giờ trời mưa hay nắng ….

(Bài Thơ Tháng Tư, thơ Trần Trung Đạo)

Mười mấy năm sau, những vần thơ của Đỗ Trung Quân đã làm tôi nghĩ về quê hương như là mẹ.

Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi


(Bài Học Đầu Cho Con – Đỗ Trung Quân)

Vâng, Đỗ Trung Quân viết đúng, quê hương mỗi người chỉ một. Việt Nam là quê hương của tất cả chúng ta. Không có quê hương của người quốc gia hay quê hương của người cộng sản. Không có quê hương tư sản hay quê hương vô sản.

Quê hương vẫn còn có đó và sẽ mãi mãi còn đó cho ngàn đời sau. Quê hương là mẹ. Trong lòng mẹ không có hận thù, không có xích xiềng, không có lao tù ngăn cách. Mẹ là mẹ của tất cả chúng ta cũng như Việt Nam là quê hương của tất cả chúng ta.

Thế nhưng, tại sao tôi, các bạn và cả hai triệu người Việt khác đều đã bỏ quê hương mà ra đi. Ai cũng có thể trả lời được, chúng ta ra đi vì tự do. Quê hương đẹp và đáng yêu nhưng không thể ở lại. Quê hương thật sự mà chúng ta đang có không phải là quê hương như Đỗ Trung Quân đã viết.

Quê hương không bao giờ đủ nghĩa nếu sống trên một quê hương mà ở đó con người bị đối xử như con vật. Sống trên một quê hương mà ở đó con người không có quyền nói những điều họ muốn nói, hát những bài hát họ yêu thích, viết những dòng thơ họ muốn viết. Hai mươi bảy năm qua, những người Cộng Sản đã mang chiếc áo độc tài vong bản choàng lên thân thể đau thương, ốm o, gầy guộc của mẹ Việt Nam, biến thánh địa của thương yêu thành một ngục tù của thù hận. Đỗ Trung Quân chẳng lẽ không thấy ra điều đó. Phần đầu của bài thơ Bài Học Đầu Cho Con của Đỗ Trung Quân:

Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy phải yêu

Quê hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng nhớ nhiều

Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay

Quê hương là con diều biếc
Tuổi thơ con thả trên đồng
Quê hương là con đò nhỏ
Êm đềm khua nước ven sông

Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che
Là hương hoa đồng cỏ nội
Bay trong giấc ngủ đêm hè

Quê hương là vòng tay ấm
Con nằm ngủ giữa mưa đêm
Quê hương là đêm trăng tỏ
Hoa cau rụng trắng ngoài thềm

Quê hương là vàng hoa bí
Là hồng tím giậu mồng tơi
Là đỏ đôi bờ dâm bụt
Màu hoa sen trắng tinh khôi...

Mặc dù bài thơ được viết sau 1975 nhưng bối cảnh của bài thơ thuộc về một thời xa xôi trong ký ức của Đỗ Trung Quân. Thời còn những đêm trăng tỏ, còn những hoa bi' vàng. Thời mà cuộc chiến chưa trở nên ác liệt. Thời mà bộ chính trị đảng CSVN chưa quyết định “giải phóng miền Nam bằng con đường vũ lực”. Thời mà Hồ Chí Minh và nhà cầm quyền Hà Nội chưa xua tuổi thơ miền Bắc lên đường đi giết tuổi thơ miền Nam.

Tuổi thơ Việt Nam sau 1975 làm gì có thời gian để leo lên chùm khế ngọt, để thả con diều biếc, để thảnh thơi đường về rợp bóng vàng bay như Đỗ Trung Quân đã viết. Các em không có đủ thì giờ để làm “kế hoạch nhỏ”, để “học tập năm điều bác Hồ dạy” thì lấy đâu thời gian mà nhìn hoa cau
rụng trắng ngoài thềm.

Tuổi thơ Việt Nam sau 1975 là tuổi thơ của những buổi trưa sắp hàng chờ từng chén cơm thừa canh cặn trong các cửa hàng ăn uống. Tuổi thơ Việt Nam sau 1975 là tuổi thơ của đói khát trên vùng Kinh Tế Mới, là tuổi thơ đứng tiễn đưa cha lên đường đi vào những trại tập trung xa xôi không hẹn ngày về, là tuổi thơ của những ngày lao động đào kinh, đắp đập. Tuổi thơ Việt Nam là đám trẻ đáng thương mà tôi đã gặp ở khu kinh tế mới Đồng Xoài, Bù Đóp, Bù Đăng mà tôi có viết trong bài thơ Những Ngày Ở Lại Sài Gòn:

Những ngày tôi sống ở đây
Tôi đã đi qua những con đường cháy nắng
Những con đường không một bóng cây xanh

Kinh tế mới Đồng Xoài, Bù Đóp, Bù Đăng
Những đứa trẻ mồ côi
Không quần ngồi giữa chợ
Cúi nhặt từng vi cá đuôi tôm

Hỏi cha mẹ em đâu
Em nhìn lên hướng núi
Hỏi về đâu đêm nay
Em nhìn mây không nói
Tôi muốn ôm chặt lấy em

Để nói với em lời tạ tội
Khổ của em là lỗi của chúng anh
Những con chim đầu đàn gãy cánh

(Những Ngày Ở Lại Sài Gòn – Trần Trung Đạo)

Quê hương là mẹ.Vâng. Nhưng chỉ có mẹ thôi thì cũng không đủ nhân tố để làm nên một cuộc đời khác, không đủ yếu tố để tạo nên hạnh phúc. Mẹ có đó còn cha thì đâu. Theo tôi, cha chính là Tự Do. Cha quan trọng, cha đáng
yêu và đáng thương như con gà trống ốm trong thơ Trần Hoài Thư khi anh viết về cha của anh:

Bao năm sau, tôi cũng đành bỏ Huế
Con gà kia, già quá, sao cam
Chiếc áo lương đen, chiếc áo thọ đường

Chiếc áo xám, chiếc dù đen, đã mất
Tháng ba, ba xa, nằm trong lòng đất
Tháng tư tôi lên đồi núi gào kêu
Quê người đây, mây lũng nặng ban chiều
Tôi ôm mặt biết thêm đời mất mát.


(Giữ chút mong manh, Thơ Trần Hoài Thư)

Tôi đã bỏ mẹ đi tìm cha. Hai triệu người Việt Nam cũng đã bỏ mẹ đi tìm cha. Tiếng gọi của cha hay sự thôi thúc của tự do đã làm bao nhiêu triệu con người trên thế giới đã và đang sẵn sàng để chết vì hai chữ thiêng liêng đó. Chúng tôi theo cha nhưng không quên mẹ, sẽ không bao giờ quên mẹ.
Chúng tôi đi nhưng nguyện sẽ trở về với mẹ. Ngày nào mẹ có cha, như quê hương có tự do, thì quê hương mới thật sự là một nơi để sống và để chết. Có quê hương mà không có tự do giống như có mẹ mà không có cha như ông bà ta thường nói “Con không cha như nhà không nóc”. Nghĩ như
thế, cơn xúc động vì bài thơ của Đỗ Trung Quân bỗng dưng lắng xuống.
Tôi đứng dậy, rời chiếc ghế đá, để tiếp tục hành trình mình đã và đang đi.

Trần Trung Đạo

Oct 23, '09 5:40 AM
for everyone

Publié dans Tiêng Viêt

Pour être informé des derniers articles, inscrivez vous :
Commenter cet article
P
QUÊ HƯƠNG, KẺ ĐI NGƯỜI Ở<br /> <br /> Viết sau khi đọc:<br /> <br /> 1) Những bài thơ của Đỗ Trung Quân mới xuất hiện trên Tiền Vệ đặc biệt là bài Tạ Lỗi Với Trường Sơn<br /> <br /> 2) Mấy câu thơ của một ông thợ hớt tóc ở Đồ Sơn nói về sự thối nát của chính quyền cộng sản<br /> <br /> “Thiên đình còn đang thối<br /> Hạ giới thơm làm sao?<br /> Bất cứ địa phương nào<br /> Sờ vào đâu cũng thối”<br /> <br /> 3) Mấy câu thơ của một nhà thơ trẻ trong ngày Thơ Nguyên Tiêu<br /> “ Quê hương là chùm khế ngọt<br /> Ai cao thì hái được nhiều”<br /> <br /> <br /> <br /> Ngày xưa anh hát:<br /> “quê hương là chùm khế ngọt”<br /> sao bây giờ cắn quả khế nào<br /> anh cũng che mặt bảo…chua?<br /> <br /> Có phải tại ngày xưa khế chua<br /> nhưng muốn nịnh người anh yêu (1)<br /> anh nói bừa là khế ngọt?<br /> hay tại sống với kẻ vô tình<br /> lâu rồi khế ngọt cũng thành chua?<br /> <br /> Ngày xưa anh hát:<br /> “đường đi học con về rợp bướm vàng bay”<br /> giờ sao ít thấy bướm vàng <br /> mà chỉ rợp trời bay cờ đỏ?<br /> Có phải tại ngày xưa <br /> anh thổi phồng con số?<br /> hay tại bướm vàng… <br /> sợ cờ đỏ bay đi?<br /> <br /> Anh còn hát về <br /> con diều biếc, <br /> con đò nhỏ, <br /> chiếc cầu tre<br /> cả hàng cau đầu hè<br /> hoa trắng xóa<br /> như muốn nài nỉ:<br /> “Người Việt ơi! Bỏ quê hương đi, sao nỡ!”<br /> nhưng những thứ ấy làm sao đổi được áo cơm<br /> và một chút tự do<br /> để sống cuộc sống của con người?<br /> <br /> Có những khung cảnh bình thường<br /> gần gũi lâu ngày thành thân thương<br /> có người gọi là quê hương<br /> có người gọi là kỷ niệm<br /> <br /> Tôi tên lái buôn liều lĩnh<br /> một lần <br /> đem hết kỷ niệm của đời mình<br /> đổi lấy hai chữ tự do<br /> rồi ngày lại ngày<br /> lênh đênh trên con thuyền viễn xứ<br /> kỷ niệm hiện về<br /> lòng quặn thắt nhớ thương<br /> <br /> Nhưng bù lại <br /> tôi có thể ung dung<br /> hát mấy bài ca, <br /> ngâm mấy vần thơ<br /> mà ở quê hương<br /> người ta cho là đồ quốc cấm<br /> <br /> Còn người ở lại<br /> được sống giữa lòng kỷ niệm<br /> không bồn chồn khi trời nắng<br /> chẳng ray rứt lúc trời mưa<br /> nhưng cắn phải quả khế chua<br /> lắm khi phải gượng cười <br /> nói là khế ngọt<br /> <br /> <br /> (1) nhưng lại không yêu anh<br /> <br /> Viết tại Đồ Sơn sau Tết Canh Dần 2010
Répondre